THE TIME TRAVELER’S WIFE – Part 3.2

Chủ nhật, ngày 23 tháng 09 năm 1984 (Henry 35 tuổi, Clare 13 tuổi)

Clare nhún vai. “Nhưng những lần anh kể cho em điều gì đó thì em lại có cảm giác như tương lại đã có sẵn rồi, anh có hiểu không? Tương lai của em đã và đang diễn ra trong quá khứ của anh và em không thể làm được gì.”

“Đó được gọi là định mệnh,” tôi nói với cô ấy. “Nó ám ảnh những giấc mơ của anh.”

Clare nhún vai. “Nhưng những lần anh kể cho em điều gì đó thì em lại có cảm giác như tương lại đã có sẵn rồi, anh có hiểu không? Tương lai của em đã và đang diễn ra trong quá khứ của anh và em không thể làm được gì.”

“Đó được gọi là định mệnh,” tôi nói với cô ấy. “Nó ám ảnh những giấc mơ của anh.”

Clare lộ vẻ ngạc nhiên hỏi, “Vì sao?”

“Uhm, nếu em thấy mình bị mắc kẹt bởi suy nghĩ rằng tương lai của em là bất di bất dịch thì hãy thử nghĩ đến cảm nhận của anh. Anh liên tục phải đối mặt với thực tế rằng anh không thể thay đổi bất kỳ điều gì, cho dù anh ở ngay đó và đứng nhìn.”

“Anh đã thay đổi nhiều thứ mà Henry! Ý em là, anh đã viết ra những đồ mà em sẽ đưa cho anh vào năm 1991, về đứa bé bị Down, và còn tờ danh sách, nếu em không có danh sách đó thì em sẽ không bao giờ biết được lúc nào sẽ gặp anh. Anh lúc nào cũng thay đổi.”

Tôi mỉm cười. “Anh chỉ có thể làm những việc liên quan tới những gì đã xảy ra tại thời điểm thực tại của anh mà thôi. Có những việc mà anh không thể, ví dụ như, đảo ngược một thực tế rằng em sẽ tháo giày như thế này.”

Clare bật cười. “Tại sao anh lại để ý việc em có tháo giày hay không?”

“Anh không có. Nếu có đi chăng nữa thì bây giờ việc đó cũng đã trở thành một phần không thể thay đổi của lịch sử trong vũ trụ và anh không thể làm được gì nữa.” Tôi lấy cho mình một cái Donut. Một cái Bismarck phủ đầy sô cô la, loại yêu thích của tôi. Lúc này, sương đang tan dần dưới ánh mặt trời, hơi nước đọng lại trên ngón tay tôi.

Clare ăn xong cái bánh của mình thì xắn quần lên rồi ngồi vắt chéo chân. Cô bé gãi gãi cổ và nhìn tôi có vẻ khó chịu. “Giờ thì anh làm em thấy xấu hổ quá. Em có cảm giác như mỗi lần xì mũi thì đó cũng là một sự kiện lịch sử.”

“Đúng là như vậy mà.”

Clare mở to mắt. “Trái ngược với định mệnh là gì ạ?”

“Sự hỗn loạn.”

“Ồ, em nghĩ là em thích điều đó. Còn anh, anh có thích không?”

Tôi cắn một miếng bánh to và suy nghĩ về sự hỗn loạn này. “Uhm, anh thích và không thích. Sự hỗn loạn còn hơn cả sự tự do, thực tế thì đó là tự do hoàn toàn. Nhưng không có nghĩa là anh muốn tự do hành động, và anh cũng muốn những hành động của mình có một ý nghĩa nào đó.”

“Nhưng anh Henry, anh đã quên mất Chúa – tại sao không thể có một vị Chúa, người luôn làm những việc tốt?” Vẻ mặt cau lại đầy nghiêm túc rồi quay đi nhìn về phía cánh đồng khi cô ấy nói.

Tôi nhét miếng bánh cuối cùng vào miệng, chậm rãi nhai chỉ để kéo dài thời gian. Bất cứ lúc nào Clare nói đến Chúa là lòng bàn tay tôi lại bắt đầu đổ mồ hôi và có một sự thôi thúc tôi nên trốn đi hoặc chạy hay thậm chí là biến mất.

“Anh không biết, Clare ạ. Ý anh là, với anh mọi thứ dường như quá ngẫu nhiên, và Chúa ở đây cũng trở nên vô nghĩa.”

Clare vòng tay ôm đầu gối. “Nhưng anh mới nói trước đó rằng mọi thứ dường như là đã được lên kế hoạch sẵn rồi.”

“Hmm,” tôi ậm ừ. Tôi kéo mắt cá chân của Clare và đặt chân cô ấy vào lên tay tôi rồi giữ lại. Clare bật cười và ngả người về phía trước. Đôi chân Clare rất lạnh nhưng sạch và vẫn giữ được màu hồng trong lòng bàn tay tôi; “Được rồi,” tôi nói, “chúng ta cùng bàn luận nhé. Những sự lựa chọn mà chúng ta đang lựa chọn là một vũ trụ thu nhỏ, quá khứ, hiện tại và cả tương lại nữa, tất cả đều đồng thời tồn tại và mọi thứ đã và đang xảy ra rồi; sự hỗn loạn là nơi bất kỳ điều gì cũng có thể xảy và không gì có thể đoán trước được bởi vì chúng ta không thể biết tất cả, rồi cả Giáo hội Thiên Chúa giáo mà ở đó Người tạo ra vạn vật, tất cả đều ở đây vì một mục đích nhưng dù thế nào đi nữa chúng ta vẫn có sự tự nguyện mà. Đúng không Clare?”

Clare ngọ nguậy những ngón chân hướng về phía tôi. “Em đoán vậy.”

“Vậy em chọn bên nào?”

Clare im lặng. Những suy nghĩ thực tế và lãng mạn của cô ấy về Chúa Jesus và Đức mẹ Mary, ở tuổi 13, có vẻ khá là cân bằng. Một năm trước, cô ấy sẽ chọn Chúa mà không hề do dự. Trong mười năm tới, cô ấy sẽ chọn thuyết định mệnh, và mười năm sau đó Clare sẽ tin rằng vũ trụ là tùy biến, và rằng nếu Chúa tồn tại, Người không nghe thấy những lời cầu nguyện, nguyên nhân và hệ quả đó là không thể tránh được và tàn nhẫn nhưng cũng hết sức vô nghĩa. Còn sau đó thì thế nào thì tôi không biết. Nhưng ngay lúc này, Clare đang ngồi trước ngưỡng cửa của tuổi mới lớn với đức tin đặt trong bàn tay và sự hoài nghi không ngừng tăng lên trong bàn tay còn lại, và tất cả những gì cô ấy có thể làm là cố gắng hoán đổi chúng như trò tung hứng bóng hoặc ép lại với nhau cho đến khi chúng hợp làm một. Clare lắc lắc đầu. “Em không biết nữa. Em muốn chọn Chúa. Như vậy có sao không?”

 

Tôi cảm thấy mình như một kẻ ngu ngốc. “Dĩ nhiên là không sao rồi. Đó là những gì em tin tưởng.”

“Nhưng em không chỉ muốn tin, em còn muốn nó là sự thật.”

Tôi lướt ngón tay qua gót chân của Clare, cô ấy nhắm mắt lại. “Em và thánh Thomas Aquinas giống nhau,” tôi nói.

“Em có nghe về ông ấy,” Clare nói, như thể đang nói về một người bác yêu quý hay người dẫn chương trình TV mà cô ấ thường xem khi còn nhỏ.

“Ngài muốn trật tự và lý trí, và Chúa cũng vậy. Ngài sống ở thế kỷ thứ mười ba và dạy ở trường Đại học Paris. Aquinas tin cả Aristotle và thiên thần.”

“Em yêu các thiên thần,” Clare nói. “Họ thật đẹp. Em ước gì mình cũng có đôi cánh để bay lượn và ngồi trên những đám mây.”

“Ein jeder Engel ist schrecklich.”

Clare thở dài, rất khẽ có nghĩa là em không nói tiếng Đức. “Câu đó có nghĩa gì?”

“‘Các thiên thần thật đáng sợ.’ Đó là một phần trong một loạt các bài thơ được gọi là Khúc Sầu Ca Bi Thương Ở Lâu Đài Duino của một nhà thơ tên Rilke. Cả hai chúng ta đều thích thơ của ông ấy.”

Clare bật cười. “Anh lại làm thế nữa rồi.”

“Làm gì cơ?”

“Kể cho em về tương lai của em ấ.” Clare đặt bàn chân trên tay tôi. Không một chút suy nghĩ, tôi kéo chân cô ấy đặt lên vai mình, nhưng rồi tôi lại thấy như thế có vẻ như không hay lắm, tôi nhanh chóng hạ xuống và cầm bàn chân của Clare bằng một bàn tay, nâng lên trong không khí khi cô ấy nằm xuống, mái tóc xõa xung quanh như vầng hào quang vây quanh như một thiên thần thơ ngây. Tôi cọ cọ vào chân Clare. Cô ấy cười khúc khích và rụt chân lại như một con cá, nhạy dựng lên lộn vòng như mèo về phía sau, toét miệng cười với tôi như thế thách tôi tới và bắt được cô ấy. Tôi chỉ cười lại với Clare rồi cô ấy quay lại tấm chăn và ngồi xuống bên cạnh tôi.

“Anh Henry?” “Ừ?”

“Anh đang làm em thay đổi.”

“Anh biết.”

Tôi quay sang nhìn Clare và chỉ trong giây lát, tôi đã quên mất cô ấy vẫn còn là một cô bé và rằng chuyện này đã lâu lắm rồi, tôi gặp Clare, vợ tôi, với gương mặt của cô bé này, và tôi không biết nói gì với Clare vừa già dặn nhưng cũng hết sức thơ ngây và khác biệt với những cô gái khác, cô ấy biết rằng sự khác biệt này có thể sẽ là khó khăn. Nhưng dường như Clare cũng không mong đợi câu trả lời. Cô ấy tựa vào cánh tay tôi, tôi vòng tay ôm lấy bờ vai của cô ấy.

“Clare!” Phá vỡ sự im lặng bao trùm cánh đồng là tiếng gọi của cha Clare.

Clare đứng bật dậy, chộp lấy giày và tất.

“Đến giờ em phải đi nhà thờ rồi,” cô ấy bỗng nhiên lo lắng nói.

“Ok,” tôi nói. “Uhm, tạm biệt em.” Tôi vẫy chào Clare, cô ấy mỉm cười và mấp mấy môi nói tạm biệt rồi chạy về phía con đường và biến mất khỏi tầm mắt của tôi. Tôi nằm thêm một chút nữa, kinh ngạc về Chúa và đọc Dorothy Sayers. Sau khoảng một giờ hoặc có lẽ hơn, tôi cũng biến mất, chỉ còn lại chiếc chăn và quyển sách, cốc café và quần áo, minh chứng rằng chúng tôi đã từng ở đây.

(to be continued)

Bình luận về bài viết này